1. Luật sư tư vấn về hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm
Hiện nay, các hành vi vi phạm liên quan đến xúc phạm danh dự của cá nhân ngày càng gia tăng, đặc biệt nhiều đối tượng lợi dụng sự phát triển của mạng xã hội đã cố tình đăng nhưng thông tin,hình ảnh với mục đích xúc phạm danh dự nhân phẩm của người khác gây ảnh hưởng xấu đến cá nhân người bị xúc phạm, ảnh hưởng lớn đến trật tự, an toàn xã hội.
Hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của người khác tùy từng trường hợp có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý hình sự. Do đó, nếu bạn đang gặp vướng mắc về các vấn đề liên quan đến hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm bạn hãy liên hệ với chúng tôi để được đội ngũ luật sư, chuyên viên tư vấn của chúng tôi hỗ trợ về các vấn đề liên quan.
2. Hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm
Điều 122, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội vu khống như sau:
Người nào bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
Tội vu khống được biểu hiện ở những hành vi như bịa đặt chuyện xấu xa cho người khác về vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức, pháp luật... Bịa đặt là hư cấu những chuyện không có thật; loan truyền những chuyện, những điều biết rõ là bịa đặt, vu oan cho người khác; bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan nhà nước, cho rằng họ đã phạm một tội nào đó. Hành vi vu khống có thể thực hiện thông qua các hình thức như truyền miệng, viết bài, gửi đơn, thư tố giác, thư nặc danh...
Trường hợp người đưa tin bịa đặt nhưng lầm tưởng những điều họ loan tin là có thật thì không phạm tội. Hậu quả xảy ra là nạn nhân bị mất uy tín, danh dự hoặc bị thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Tội vu khống được coi là hoàn thành từ khi người phạm tội thực hiện hành vi loan truyền những điều bịa đặt cho người khác biết hoặc tố cáo với cơ quan nhà nước về việc người khác phạm tội.
3. Bồi thường thiệt hại do danh dự bị xâm phạm quy định như thế nào?
Theo quy định tại Điều 592 Bộ Luật dân sự 2015 về thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm:
Điều 592. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
c) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Nhưng trong pháp luật dân sự, loại thiệt hại này, thuộc loại bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bởi lẽ, người có hành vi xâm hại và nạn nhân không có giao kết, thoả thuận bằng hợp đồng dân sự nào. Và, không bao giờ có loại hợp đồng, để một người yêu cầu người khác xâm hại danh dự, nhân phẩm của mình.
Và để được bồi thường thiệt hại xảy ra, cần phải có đủ đồng thời các yếu tố như:
- phải có thiệt hại xảy ra;
- phải có hành vi trái pháp luật;
- phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật;
- phải có lỗi cố ý hoặc vô ý của người gây thiệt hại.
Trong trường hợp của bạn, căn cứ vào quy định pháp luật trên thì việc người đó được công an triệu tập để điều tra theo thủ tục thì không thể coi là bị xúc phạm danh dự và đòi bồi thường được. Việc bạn đặt nghi ngờ để cơ quan điều tra mời những người này lên trụ sở để làm việc chỉ nhằm mục đích hợp tác điều tra giải quyết vụ án, không hề có hành vi vu khống hay xúc phạm với những người kia, trừ trường hợp bạn có những cử chỉ, hành vi, lười nói thô bạo với họ tại trụ sở cơ quan điều tra.